logo
TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU VIỆT NAM

Kon Tum: Nhìn lại 3 năm thực hiện Đề án chính sách hỗ trợ phát triển cao su tiểu điền 16/09/2014

Hướng dẫn trồng và chăm sóc cao su

Ngay sau khi UBND tỉnh ban hành Đề án phát triển cao su tiểu điền, các sở ngành, địa phương đã tổ chức xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện. Trong đó, Sở Nông nghiệp và PTNT là đơn vị được giao nhiệm vụ chủ trì trực tiếp triển khai Đề án phát triển cao su tiểu điền, đã chủ động tổ chức thực hiện và phối hợp tốt với các địa phương trong quá trình triển khai thực hiện Đề án như: Phối hợp tổ chức thực hiện kế hoạch trồng mới cao su, phối hợp tham mưu UBND tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án cấp tỉnh, tham mưu UBND tỉnh thông báo nhiệm vụ Ban Chỉ đạo cấp tỉnh; ban hành kế hoạch kiểm tra vườn cây cao su qua các năm và tham mưu liên ngành một số vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện Đề án.

Trong tổng số 7 huyện, thành phố với 2.002,6 ha cao su tiểu điền được trồng mới trong 3 năm, huyện Đăk Tô có diện tích lớn nhất là 100,7 ha với 537 hộ tham gia; Ngọc Hồi 98,54 ha với 409 hộ; Sa Thầy 96,48 ha với 471 hộ; Kon Rẫy 88,71 ha với 171 hộ; Đăk Glei 85,39 hộ với 450 hộ; Đăk Hà 82,85 ha với 157 hộ; thành phố Kon Tum 71,7 ha với 139 hộ. Công tác đăng ký, bình xét, phê duyệt danh sách hộ nghèo tham gia Đề án được tổ chức từ cấp thôn đến cấp xã, huyện được thực hiện đúng quy định Đề án.

Trên cơ sở nhu cầu đăng ký tham gia Đề án, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư (Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo Đề án cao su tiểu điền tỉnh) đã phối hợp với các huyện, xã liên quan tổ chức 207 lớp; trong đó, mở được 114 lớp tập huấn trồng mới cho 2.394 hộ, 83 lớp tập huấn chăm sóc cho 1.929 hộ và 10 lớp tập huấn chăm sóc theo Quyết định số 14/2009/QĐ-UBND cho 214 hộ. Ngoài ra, còn tập huấn kỹ thuật chăm sóc vườn cây cao su cho các hộ đã trồng năm 2009 và 2010 tham gia Đề án theo Quyết định số 14/2009/QĐ-UBND. Thông qua các lớp tập huấn, các hộ đã được hướng dẫn chi tiết kỹ thuật kết hợp thực hành ngoài thực địa kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cao su giai đoạn trồng mới, kiến thiết cơ bản; kỹ thuật chọn giống đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật.

Công tác cấp phát hỗ trợ cây giống cao su cho các hộ tham gia Đề án đã được tổ chức thực hiện đảm bảo thời vụ và kế hoạch đề ra. Quá trình cấp phát cây giống được các đơn vị kiểm tra, giám sát chặt chẽ về chất lượng đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng theo quy định.

Trên cơ sở nhiệm vụ được giao và định mức hỗ trợ phân bón, thuốc bảo vệ thực vật theo Đề án, UBND các huyện đã bố trí vốn để hỗ trợ phân bón và thuốc BVTV cho các hộ trồng mới và chăm sóc diện tích cao su theo tham gia Đề án. Tuy nhiên, do kinh phí hỗ trợ phân bón và thuốc BVTV lũy kế hàng năm theo diện tích với số tiền tương đối nhiều nên có huyện chưa bố trí đủ theo quy định của Đề án. Trong đó, huyện Sa Thầy chỉ hỗ trợ phân bón và thuốc BVTV cho năm trồng mới.

Hiện cao su trồng năm mới năm 2012 đã định hình vườn cây, sinh trưởng tốt; chiều cao cây trung bình 2,5-3 m, mật độ cây trên vườn đạt trung bình 90%. Cao su trồng mới năm 2013 đã bắt đầu định hình, vườn cây đều được phát ranh trồng xen, các hộ dân tham gia Đề án đã chủ động mua cây giống trồng dặm bằng cây có tầng lá (riêng huyện Đăk Tô đã hỗ trợ cây tầng lá trồng dặm cho tất cả các diện tích). Hầu hết các vườn cao su đều đã được bón phân thúc theo quy định. Tuy nhiên, vẫn còn một số hộ trồng xen sắn có đường băng nhưng đường băng nhỏ, ảnh hưởng đến sinh trưởng vườn cây cao su. Cao su trồng mới năm 2014 đã được tổ chức triển khai đúng tiến độ kế hoạch, tỷ lệ nảy mầm cao; hầu hết các hộ đều trồng xen sắn có để băng. Đa số các hộ tham gia đã trồng đúng kỹ thuật tập huấn. Tuy nhiên, vẫn còn một số diện trồng xen sắn chưa đảm bảo quy trình, điều kiện thời tiết mưa nhiều đã phát sinh bệnh héo đen đầu lá đã được Ban Chỉ đạo Đề án các huyện, xã kiểm tra hướng dẫn khắc phục.

Trong ba năm triển khai thực hiện Đề án tuy đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng còn phát sinh những khó khăn vướng mắc như đa số các hộ tham gia Đề án ở các huyện đúng đối tượng, có đất đủ điều kiện tham gia nhưng lại thiếu vốn, thiếu phân hữu cơ, thiếu lao động hoặc chưa bố trí lao động để thực hiện các yêu cầu kỹ thuật trong công tác trồng mới, chăm sóc cây cao su.

Một số hộ tham gia Đề án còn trông chờ ỉ lại, trồng chưa đúng kỹ thuật như đã được tập huấn như trồng xen sắn với mật độ cao trong vườn cây cao su trồng mới, trồng quá sâu hoặc để hở cổ rễ, phòng trừ bệnh hại chưa kịp thời đã ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát sinh bệnh trên cây cao su, trong đó 1,5 ha ở huyện Kon Rẫy bị cháy do các hộ thực hiện chống cháy chưa đảm bảo.

Diện tích trồng cao su của các hộ tham gia Đề án phân tán nhỏ lẻ, phân bố rộng trên địa bàn nhiều xã phải huy động nhiều người tham gia; giao thông đi lại khó khăn trong mùa mưa ảnh hưởng đến việc hướng dẫn kỹ thuật, vận chuyển giống, phân bón, thuốc BVTV.

Định mức thuốc BVTV áp dụng theo Quyết định 498/2002/QĐ-UBND của UBND tỉnh Kon Tum thấp và chỉ hỗ trợ thuốc trừ mối, không phù hợp với quy định tại Quyết định 3073/QĐBNN-KHCN làm ảnh hưởng đến hiệu quả phòng trừ sâu bệnh cho vườn cao su.

Giá mủ cao su trên thị trường sụt giảm mạnh đã ảnh hưởng lớn đến tâm lý các hộ tham gia Đề án, đã có một số hộ chặt phá cao su, chuyển đổi sang trồng cây khác như cà phê, một số hộ đã trồng xong nhưng không chú trọng đến công tác chăm sóc và bón phân.

Qua kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ Đề án năm 2012-2014, Đoàn kiểm tra Ban chỉ đạo tỉnh đã tổ chức lấy ý kiến của Ban chỉ đạo Đề án 7 huyện, thành phố và các xã tham gia Đề án về nhu cầu tiếp tục tham gia Đề án trong thời gian còn lại đã được thống nhất đề xuất tiếp tục triển khai Đề án với lý do đây là Đề án phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện sản xuất người nghèo, nhiều hộ nghèo vẫn có nguyện vọng được tham gia Đề án. Theo kế hoạch của Đề án thì đến năm 2016 sẽ hỗ trợ trồng mới được 5.841,5 ha cho các hộ nghèo trong toàn tỉnh.

Bài, ảnh: A Lê Khăm

ĐƠN VỊ TÀI TRỢ
ĐƠN VỊ TÀI TRỢ