logo
TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU VIỆT NAM

Cây cao su là “ngân hàng” của người nghèo 12/08/2013

 

Chuyên mục Tâm huyết với ngành kỳ này xin trích đăng những chia sẻ của ông Trần Ngọc Thành - nguyên Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty Cao su VN trong quãng thời gian ông công tác.

Sau giải phóng, do Nhà nước sắp xếp lại, Bộ Nông trường không còn mà chỉ còn Tổng Cục nông trường thuộc Bộ Nông nghiệp. Từ khi Tổng Cục Cao su được thành lập thuộc Chính phủ cách mạng lâm thời, tôi được điều về công tác tại tổng cục, đó là năm 1976.

Gần 30 năm gắn bó với ngành cao su tôi chứng kiến rất nhiều giai đoạn thăng trầm, cùng những đóng góp và hy sinh to lớn của nhiều thế hệ cha anh đi trước. Trong đó, đáng nhớ nhất là giai đoạn tiếp quản cao su Nam Bộ. Hồi đó, tổng diện tích còn lại khoảng 40.000 ha, nhưng chỉ có Cao su Đồng Nai còn tương đối nguyên vẹn, còn Cao su Phước Hòa, Đồng Phú, Phú Riềng, Lộc Ninh, Bình Long thì vườn cây xơ xác, nhà máy chế biến tiêu điều do ảnh hưởng bởi chiến tranh và thiên tai. Giai đoạn đầu bắt tay vào gầy dựng vườn cây, nhà máy gặp rất nhiều khó khăn, vất vả, phải tận dụng tối đa mọi nguồn lực, trong đó có những người có kinh nghiệm làm cao su từ thời kỳ trước. Còn phục hồi nhà máy chế biến, cũng chủ yếu sản xuất mủ tờ.      

Năm 1978, tôi tháp tùng lãnh đạo Tổng cục là ông Trần Mão đi báo cáo với lãnh đạo cấp trên về khả năng hợp tác phát triển dự án trồng 50.000 ha cao su từ nguồn vốn vay 110 triệu rúp của Liên Xô để thực hiện dự án trong 5 năm. Sau khi được giải ngân, dự án này giao Phú Riềng thực hiện, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau Phú Riềng không thể đảm đương phát triển đủ 50.000 ha. Lãnh đạo Tổng cục có sáng kiến lấy nguồn vốn đó phân bổ cho một số công ty thuộc tổng cục và công ty địa phương quản lý phát triển cao su để hoàn thiện dự án. Nhờ nguồn vốn này mà diện tích cao su được phát triển đáng kể, nhiều vườn cây, nhà máy, cơ sở hạ tầng được đầu tư bài bản, chất lượng hơn.

Ngoài ra, phải kể đến giai đoạn có tính chất lịch sử của ngành cao su, đó là thời kỳ mở cõi, đưa cây cao su lên Tây Nguyên. Với mục đích tạo thu nhập và công ăn việc làm ổn định cho người đồng bào dân tộc, đồng thời góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo sự ổn định về an ninh quốc phòng khu vực Tây Nguyên, lãnh đạo Tổng Công ty quyết đưa cây cao su lên vùng này. Mặc dù, có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng về chủ trương thì đạt được sự đồng thuận cao trong ban lãnh đạo lúc bấy giờ.

Những năm 1984-1985, với phương châm “gà mẹ đẻ gà con” một số công ty khu vực Đông Nam bộ đưa nhân lực lên Tây Nguyên phát triển cao su và thành lập công ty. CTCS Dầu Tiếng thành lập công ty Krông Búk và Chư Sê; CTCS Phước Hòa lập công ty Mang Yang và Kon Tum; CTCS Đồng Nai lập công ty Ea H’Leo. Ngoài ra, sau này tiếp nhận một số nông trường do địa phương quản lý lập nên một số công ty khác. Người có công rất lớn trong việc phát triển cao su lên Tây Nguyên là ông Tư Nguyện (Đỗ Văn Nguyện - Tổng cục trưởng Tổng cục Cao su). Ông là người rất có tâm huyết với ngành cao su và chăm lo việc làm, đời sống người lao động.

Có thể khẳng định, nhờ cây cao su mà nhiều người thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Dù ở thời kỳ nào, cây cao su giống như “ngân hàng” của người nghèo. Phát triển cây cao su đến đâu, bộ mặt nông nghiệp - nông thôn - nông dân nơi đó thay đổi tích cực. Với bề dày lịch sử và truyền thống hào hùng 84 năm, tôi mong muốn ngành cao su ngày càng phát triển bền vững. Các thế hệ lãnh đạo, CB.CNVC-LĐ VRG phát huy truyền thống, luôn đoàn kết, gắn bó, đồng lòng, hợp sức lèo lái con thuyền Tập đoàn cao su ngày càng tiến xa hơn nữa.

Bình Nguyên (ghi)

Nguồn: Tạp chí cao su Việt Nam

ĐƠN VỊ TÀI TRỢ
ĐƠN VỊ TÀI TRỢ