logo
TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU VIỆT NAM

Khó khăn ngành cao su: Nghịch lý cao su Việt - Xuất “thô” rẻ, nhập “tinh” đắt 21/01/2015

Theo các chuyên gia, năm 2015 này vẫn được dự đoán sẽ là năm tiếp tục khó khăn của ngành cao su, khi lợi nhuận từ cây cao su không nhiều, thậm chí là không có. Giá cao su trên thị trường sẽ ở mức 31.000 đồng/kg, trong khi giá thành đã ở mức 30.000 đồng/kg.

Đồng thời số liệu của Bộ NN&PTNT cũng cho biết năm 2014, Việt Nam XK được 1,07 triệu tấn cao su, thu về 1,8 tỷ USD. Về số lượng tương đương với năm 2013, nhưng về giá trị, giảm đến trên 27%. Giá trị giảm vì giá bán giảm.

Giá thành tương đương giá bán

Trước đó có những thời điểm cao su được ví như “vàng trắng”, với mức giá hơn 100 triệu đồng/tấn vào những năm từ 2010 - 2011. Tuy nhiên, đến thời điểm này, giá cao su đã giảm mạnh, chỉ còn khoảng 27 - 29 triệu đồng/tấn, thấp hơn cả mức giá sàn mà Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam đề ra.

Ông Trần Văn Du, Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng, chia sẻ khó khăn của công ty cũng là khó khăn của tập đoàn và của cả ngành do giá cao su thế giới liên tục sụt giảm. Hiện, giá bán của công ty đã xuống thấp hơn giá sàn mà tập đoàn đưa ra, điều này gây rất nhiều khó khăn và áp lực cho công ty về vấn đề bảo đảm lương cho cán bộ, công nhân viên.

“Cũng may, toàn bộ số cao su DN XK đều theo hợp đồng với các đối tác ký từ năm trước nên giá vẫn giữ vững. Tuy nhiên, cứ theo đà giảm giá như vậy, công ty rất khó có thể giữ vững thu nhập bình quân cho cán bộ, công nhân viên là 4,5 triệu đồng/tháng”, ông Du lo lắng nói.

Còn ông Võ Sỹ Lực, Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam (VRG), cho biết từ năm 2012 đến nay, giá cao su sụt giảm liên tục do kinh tế thế giới phục hồi chậm, trong khi nguồn cung tăng nhanh, làm lượng tồn kho cao, gây áp lực giá giảm và nhu cầu NK bị chững lại… Người trồng cao su gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt đối với những hộ dân trồng quy mô nhỏ.

Năm 2015 sẽ năm tiếp tục khó khăn của ngành cao su

Năm 2014 cũng là năm mà nhiều người dân ở Tây Nguyên, Nam bộ đã phá đi những mảnh đồi cao su của mình, kể cả được phép cũng như không được phép vì ế ẩm. Ước tính đã có hơn 4.000ha cao su bị người dân phá bỏ để chuyển sang cây trồng khác. Thậm chí để được “phá bỏ” cao su, người dân đã lấy lý do cây cao su không có mủ, chuyển sang cây trồng khác cho thu nhập cao hơn.

“Chúng tôi khuyến cáo người dân nên tiếp tục giữ vườn nhưng giảm giá thành đầu tư bằng cách giảm công chăm sóc, làm cỏ, phân bón và giảm bớt ngày cạo; chỉ khai thác các vườn cao su có chất lượng tốt, năng suất cao để đảm bảo được có lãi”, ông Lực cho biết.

“Ngắc ngoải” vì phụ thuộc

Ở chiều ngược lại, khối lượng NK cao su trong tháng 12/2014 ước đạt 35.000 tấn, trị giá 69 triệu USD, đưa khối lượng NK mặt hàng này năm 2014 đạt 328.000 tấn, trị giá 658 triệu USD, tăng 4,9% khối lượng nhưng giảm 2,4% giá trị so với năm 2013.

Các thị trường NK cao su chủ yếu của Việt Nam bao gồm Hàn Quốc (chiếm 21,9%), Nhật Bản (16,4%) và Campuchia (10,6%). Đặc biệt, Trung Quốc là thị trường NK cao su lớn thứ 6 của Việt Nam, chiếm 5,4% tổng kim ngạch NK.

Như vậy, trong khi khối lượng cao su XK giảm, khối lượng NK cao su của Việt Nam năm 2014 lại tăng tới 4,9%, với số lượng 328.000 tấn, có giá trị 658 triệu USD.

Tuy nhiên, điều đáng để suy ngẫm là Trung Quốc lại không mua cao su của Việt Nam. Bởi trong kinh doanh, lợi nhuận luôn được đặt lên hàng đầu. Khi có được nguồn nguyên liệu cao su từ một thị trường khác rẻ hơn, việc họ từ chối NK cao su của Việt Nam, hay ép giá, là điều bình thường.

Cao su Việt trở nên “cùng đường” hơn khi Trung Quốc “cấm cửa”, trong khi lại không tích cực đi tìm thị trường mới và hậu quả là bị nước láng giềng khống chế đầu ra. Khi chiếc gậy chỉ huy từ biên mậu của nước láng giềng hạ xuống, các nhà NK của họ đồng loạt quay lưng, ngành cao su Việt lao đao.

Là “người khổng lồ” về XK cao su nhưng vấn đề đặt ra lâu nay đối với ngành này là hầu hết cao su Việt Nam đều XK dạng nguyên liệu thô. Cao su XK của ta chỉ là nguyên liệu thô, chủ yếu cao su thiên nhiên, chỉ qua sơ chế và nhựa cao su chưa qua sơ chế.

Chúng ta xuất nguyên liệu thô để rồi lại nhập những sản phẩm do nước ngoài chế biến từ nguyên liệu đó về với giá đắt gấp nhiều lần. Công nghiệp chế biến sâu về các sản phẩm cao su Việt Nam chưa làm được, hay nói cách khác là chưa chú ý đầu tư một cách thích đáng để làm.

Ông Trần Ngọc Thuận, Tổng Giám đốc Tập đoàn VRG, thừa nhận hiện Việt Nam chủ yếu XK sản phẩm thô, chủ yếu là cao su thiên nhiên đã qua sơ chế và nhựa cao su latex (chưa qua sơ chế). Với cách làm này, giá trị gia tăng của ngành cao su không cao và không ổn định. Trong khi đó, theo tính toán, giá trị của cao su sẽ tăng đến 20 lần nếu sản phẩm thô được đưa vào chế biến sâu.

Cũng như theo các chuyên gia trong ngành, nếu bán cao su thô được một, nhưng chuyển sang chế biến thành các sản phẩm cao su thông thường (như săm lốp), giá trị sẽ tăng gấp 8 - 10 lần; còn nếu chế tạo thành các sản phẩm cao su kỹ thuật, giá trị có thể tăng 18 - 20 lần.

Ngoài ra, việc tập trung chế biến cao su cũng sẽ giúp nền kinh tế giảm thiểu nhu cầu NK linh kiện cho các ngành công nghiệp khác, trị giá hàng chục triệu đến hàng trăm triệu USD.

Ông Đoàn Xuân Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến, thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ NN&PTNT), cũng đánh giá mặc dù mủ cao su của Việt Nam chủ yếu phục vụ XK song mới chỉ có 18% lượng mủ cao su được đưa vào chế biến ở trong nước. Nếu chúng ta chế biến được 25% lượng mủ cao su sản xuất ra sẽ bớt phụ thuộc vào thị trường nước ngoài.

Do vậy, các DN sản xuất, kinh doanh cao su trong nước cần phải đầu tư mạnh hơn nữa, để tăng sản lượng chế biến mủ cao su.

Rõ ràng chừng nào chúng ta còn chăm chăm xuất nguyên liệu thô, chừng nào còn phụ thuộc vào một thị trường, chừng nào ngành công nghiệp chế biến cao su còn chưa được đầu tư thỏa đáng thì chừng đó ngành cao su còn phải chịu thiệt thòi và còn thiếu bền vững.

----------

Ông Cao Đức Phát

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT

Năm 2015 sẽ năm tiếp tục khó khăn của ngành cao su. Do vậy, nhằm giúp người dân, DN vượt qua khó khăn, ổn định phát triển sản xuất, về các giải pháp lâu dài, Bộ NN&PTNT chỉ đạo các ngành liên quan kiên trì phát triển cao su bền vững trên cơ sở tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả, không chạy theo diện tích, tập trung nâng cao tính bền vững, hiệu quả. Làm tốt việc trồng trọt để năng suất cao hơn, chi phí ít hơn. Ngoài ra, cần chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng cho sản xuất cao su.

Lê Thúy

Theo Thời báo kinh doanh

ĐƠN VỊ TÀI TRỢ
ĐƠN VỊ TÀI TRỢ